HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC, THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN SẢN PHẨM MANG NHCN “GẠO NẾP LÀO MU – KHÁNH THIỆN”

1.1. KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC

1.1.1. Thời vụ gieo mạ và cấy

Gieo cấy trong vụ mùa, giao mạ xung quanh ngày 15/6; (gieo trước ngày lập thu 50 ngày) . cấy từ 05/7 đến 15/7 dương lịch (mạ được 20-30 ngày tuổi, không cấy mạ đã mọc thêm đốt).trước đây không có lịch thì tổ tiên trông vào tiết trời như: “Mác phày cắm hăm căng ván chá, Mác túm khạng cuôi chá đăm nà” dịch là: quả dâu da thâm như dái khỉ thì gieo mạ, quả sổ mắc mắt sọt gánh mạ thì cấy lúa; hay: “Coóng đeng tày lèng ván chá” dịch là: thấy lá Bồ kết trâu đỏ thì người tày gieo mạ”.

1.1.2. Chọn giống

Khâu chọn giống nên tuân thủ theo một số tiêu chí như sau:

  • Hạt giống được thu hoạc từ cây lúa nếp Lào Mu, hạt có độ thuần cao, chưa bị lai tạp, thoái hóa.
  • Hạt khô, sạch, chắc mẩy, đồng nhất về kích cỡ, không bị lẫn hạt giống khác, không bị lẫn cỏ và tạp chất, không có hạt đen, lép, dị dạng, không bị côn trùng làm hư hại (sâu, mọt), không mang mầm bệnh.
  • Tỷ lệ nảy mầm đạt từ 85% trở lên.

1.1.3. Ngâm, ủ hạt giống

–  Kỹ thuật ngâm hạt giống: Ngâm lần đầu khoảng 36 đến 48 giờ. Sau đó thay nước, đãi sạch nước chua và đem ngâm tiếp lần 2. Sau 20 giờ lại thay nước và đãi chua lần 2. Hạt giống đã được đãi sạch nước chua cho vào bao tải hoặc dành đảm bảo thông thoáng, thoát nước và tiến hành ủ ở nơi thoáng mát. Trong quá trình ủ phải buộc chặt miệng bao hoặc phủ bao tải trên miệng dành. Sau khi ủ được 12 đến 14 giờ, tiến hành ngâm tiếp lần 3 khoảng 10 đến 12 giờ rồi lại đãi sạch đem ủ.

– Kỹ thuật ủ thúc mầm: Đem hạt giống đã hút đủ nước, ủ để hạt nảy mầm. Trong quá trình ủ, định kỳ vảy nước và trộn đảo hạt để hạt nảy mầm đều. Khi hạt đã nhú mầm thực hiện xen kẽ “ngày ngâm, đêm ủ” để phát triển cân đối mầm và rễ.

1.1.4. Kỹ thuật làm mạ

– Đảm bảo nước cho mạ: Ở thời kỳ mạ non (từ lúc gieo hạt đến khi có 3 lá), mặt luống phải được giữ ẩm để rễ mạ phát triển thuận lợi. Khi mạ có 4 lá đến khi nhổ cấy luôn đảm bảo mực nước trong ruộng 2 – 3 cm.

– Phân bón/sào:

+ Bón thúc lần 1 khi mạ 2- 3 lá với định lượng 1,8kg urê và 1,8kg kali clorua.

+ Bón thúc lần 2 khi mạ 3- 4 lá với định lượng như lần 1.

+ Bón thúc lần 3 trước thời điểm nhổ cấy 7 với định lượng như lần 2.

– Phòng trừ sâu bệnh, cỏ dại:

+ Phun thuốc trừ cỏ cho ruộng mạ sau khi gieo mạ từ 24 – 50 giờ.

+ Tiến hành theo dõi và phòng trừ sâu bệnh phát sinh trên ruộng mạ.

– Đất gieo mạ: Chọn ruộng có thành phần cơ giới nhẹ, đất cát pha, chân đất cao dễ tiêu thoát nước, tránh úng ngập khi mưa lớn.

– Làm đất: Đất cày, bừa ngả sớm, bừa nhuyễn, bằng phẳng, sạch cỏ, lên luống rộng 1,0-1,2m, cao 20-25cm, rãnh rộng 20-30cm, mặt luống hơi vồng để dễ thoát nước.

– Bón lót: 360 kg phân chuồng + 20 kg supe lân + 2 kg đạm Urê + 2 kg Kali cho 1 sào (tương đương: 1kg phân chuồng, 50 gam supe lân, 5 gam urê, 5 gam kaliclorua/1m2).

– Lượng giống gieo: 30 kg/sào Bắc bộ (tương đương 80 gam/1m2), gieo làm nhiều lần đảm bảo rải đều trên bề mặt luống.

1.1.5. Kỹ thuật cấy và chăm sóc lúa

– Cấy lúa: Cấy thẳng hàng với mật độ từ 35 – 40 khóm/m2; số dảnh lúa trên một khóm: từ 3-4 dảnh.

– Phân ô phục vụ chăm sóc: Trong quá trình cấy, cứ cấy được 10 hàng lúa phải bỏ cách một đoạn rộng 30 cm để tạo các ô rộng 2,5m phục vụ cho quá trình chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và khử lẫn.

– Mực nước khi cấy: đảm bảo mực nước từ 4 – 5 cm để mạ nhanh bén rẽ.

– Làm cỏ, sục bùn: Khi cây lúa bén rễ hồi xanh tiến hành làm cỏ kết hợp với sục bùn và bón thúc. Mục đích để diệt cỏ dại, vùi phân tránh mất đạm, bổ sung ô xy cho rễ, làm đứt rễ già và kích thích ra rễ mới. Trong trường hợp không làm cỏ, sục bùn thì phải tiến hành phun thuốc trừ cỏ.

1.1.6. Điều tiết nước

  • Giữ nước:

– Lần 1: Từ khi cấy đến sau khi bón phân thúc đẻ nhánh 7-15 ngày, kết hợp làm cỏ, trừ cỏ. Giữ nước trên mặt ruộng khoảng 5cm.

– Lần 2: Từ khi lúa phân hóa đòng (đứng cái) đến khi lúa chín sáp (chắc xanh) hay trước khi thu hoạch khoảng 15 ngày. Giữ nước trên mặt ruộng khoảng 5 cm.

  • Rút nước:

– Lần 1: Saukhi bón phân thúc đẻ nhánh đến khi lúa phân hóa đòng (đứng cái). Rút kiệt nước (đi vào ruộng chỉ hơi lún đất không bị lấm chân). Nếu ruộng khô thì tưới ẩm, không giữ nước trên ruộng.

– Lần 2: Từ khi lúa chắc xanh hay trước khi thu hoạch 15 ngày đến khi thu hoạch. Rút kiệt nước triệt để cho ruộng ở mức độ nẻ (đi vào không lún chân).

1.1.7. Bón phân

Bảo đảm nguyên tắc bón cân đối, hợp lý, bón tập trung, bón sớm và bón sâu. Tăng cường sử dụng các loại phân bón đa yếu tố, phân chuyên dùng và phân hữu cơ tổng hợp, hạn chế sử dụng phân đơn. Cách bón và liều lượng bón căn cứ vào độ phì của đất và diễn biến thời tiết cụ thể.

– Lượng phân bón tính cho 1 sào (360m2) như sau: Phân chuồng 300-400 kg; đạm urê 3,5-4,5 kg, supe lân 10-15 kg, kaliclorua 3-4 kg.

– Phương pháp bón phân như sau:

+ Bón lót: Toàn bộ phân chuồng, phân lân, 50% lượng đạm, 40% lượng kali trước khi bừa cấy.

+ Bón thúc lần 1: Bón 40% lượng phân đạm khi lúa bắt đầu đẻ nhánh.

+ Bón thúc lần 2 (nuôi đòng): Bón nốt 10% số phân đạm và kali, nếu lúa vẫn có màu xanh đậm thì bớt đi 10% đạm và chỉ bón số Kali còn lại.

1.1.8. Phòng trừ sâu bệnh

– Phòng trừ sâu bệnh: Việc phòng trừ sâu bệnh phải được thực hiện thường xuyên và theo nguyên tắc sau:

– Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để kịp thời phát hiện sâu bệnh.

– Thực hiện phòng trừ sâu bệnh theo nguyên tắc đúng thuốc, đúng thời điểm và đúng liều lượng.
Một số sâu bệnh chính gây hại, thời điểm phát sinh và cách phòng trừ:

+ Sâu đục thân bướm 2 chấm (Scirpophaga incertulas Walker): Sâu phát sinh gây hại trong suốt thời kỳ sinh trưởng. Thời kỳ gây hại nặng nhất vào lứa 5 (tháng 8 – 9) và lứa 6 (tháng 9 – 10). Cách phòng trừ: cày lật gốc rạ phơi ải hoặc làm dầm; phun thuốc hóa học như virtako 40WG, Dupont Prevathon 5SC sau khi bướm rộ 5 – 7 ngày.

+ Rầy nâu (Nilaparvata lugens Stal): Phát triển trong điều kiện khí hậu ấm nóng, độ ẩm cao, mưa nắng xen kẽ. Rầy xâm nhập ngay từ khi mới cấy và hại cả trên mạ. Cao điểm rầy gây hại nặng vào giai đoạn lúa trỗ xong, ngậm sữa và bắt đầu chín. Cách phòng trừ: cấy dày vừa phải, bón phân cân đối. Khi mật độ rày cám từ 18 – 27 con/khóm dùng các loại thuốc Bassa 50 EC, Trebon 20ND rạch hàng lúa để phun. Dùng Actara 25WG không cần rạch hàng nhưng phải phun tập trung vào gốc lúa.
+ Bệnh đạo ôn (Piricularia oryzae Cavara): Bệnh hại trên lá, đốt thân, cổ bông, gié và hạt. Thường phát sinh trong điều kiện thuận lợi, như: thời tiết âm u, ẩm ướt, có sương, ruộng bón nhiều đạm.

Phòng trừ: bón phân cân đối. Khi phát hiện có bệnh không nên bón đạm, giữ nước xăm xắp, vơ lá bệnh đem đốt. Phun thuốc New Hinosan 30EC, Kitazin 50EC, Kasai 21,2%, Fujione 40EC, Beam 75WP, Filia 525 SE.

+ Bệnh khô vằn (Rhizoctonia solani Kuhn): Bệnh phát triển thuận lợi trong điều kiện thời tiết nóng ẩm, ruộng lúa cấy dày, rậm rạp, bón đạm lai rai. Phòng trừ: cấy dày vừa phải, bón phân cân đối, phân chuồng phải được ủ kỹ. Khi lúa bị bệnh phải dọn sạch tàn dư trên ruộng kết hợp phun thuốc trừ bệnh như Validacin 3SL, 5L, 5SP, Vacocin 3SL; Anlincin 5WP.

+  Sâu đục thân 2 chấm:

Triều chứng gây hại: Xuất hiện những dảnh héo (giai đoạn đẻ nhánh) và bông bạc (giai đoạn trỗ chín).

Biện pháp phòng trừ: Khi mật độ trứng 0,3 – 0,5 ổ/m2 (giai đoạn đẻ nhánh), 0,2 – 0,3 ổ/m2 (giai đoạn làm đòng – trỗ bông), phun một trong các loại thuốc sau: Virtako 40 WG, Regent 800WG, Tango 800WG.

+ Sâu cuốn lá nhỏ:

* Triệu chứng gây hại: Sâu non nhả tơ cuốn dọc lá lúa thành một bao thẳng đứng hoặc bao tròn gập lại. Sâu nằm trong bao ăn biểu bì mặt trên và diệp lục của lá (không ăn biểu bì mặt dưới lá) theo dọc gân lá tạo thành những vệt trắng dài, các vệt này có thể nối liền nhau thành từng mảng. Do đó khi cấy lúa bị phá hại nặng thì lá bị trắng, làm giảm khả năng quang hợp, năng suất lúa giảm rõ rệt.

* Biện pháp phòng trừ: Khi mật độ sâu non 50 con/m2 (giai đoạn đẻ nhánh), 20 con/m2 (giai đoạn làm đòng – trỗ bông), phun một trong các loại thuốc sau: Virtako 40 WG, Regent 800WG.

+ Rầy nâu:

* Triệu chứng gây hại: Rầy nâu dùng vòi để chích hút nhựa cây làm cho cây lúa bị khô héo. Khi rầy nâu chích vào thân lúa, chúng để lại trên lá, thân một vệt nâu cứng, cản trở sự luân chuyển nước và chất dinh dưỡng làm thân, lá bị khô héo. Mật độ cao gây ra hiện tượng cháy rầy.

* Biện pháp phòng trừ: Khi mật độ rầy > 3.000 con/m2, phun một trong các loại thuốc sau: Panalty Gold 50EC, Chess 50WG, Superista 25EC, HiChes 50WG.

+ Bệnh bạc lá: do vi khuẩn Xanthomonasoryae gây ra.

* Triệu trứng gây hại: Bệnh thường xuất hiện từ mép lá, lan dần vào trong phiến lá hoặc kéo dài theo gân chính, nhưng cũng có khi vết bệnh xuất hiện từ giữa phiến lá rồi lan rộng ra. Vết bệnh lan theo đường gợn sóng màu vàng, mô bệnh xanh tái, vàng lục, lá nâu bạc, khô xác.

Thời tiết ẩm hoặc vào sáng sớm trên vết bệnh có giọt dịch màu vàng, vàng đục chứa vi khuẩn (gọi là keo vi khuẩn). Bệnh nặng làm cho toàn bộ phiến lá lúa bị khô cháy. Hạt bị lép lửng.

* Biện pháp phòng trừ: Phun một trong các loại thuốc sau: Sasa, Xanthomix, Staner, Kasumil.

1.2. KỸ THUẬT THU HOẠCH, BẢO QUẢN

1.2.1. Thu hoạch và phơi thóc

– Thời điểm thu hoạch: khi thấy 85 – 90% số hạt trên bông chín (thông thường sau trỗ khoảng 28 – 30 ngày) là thời gian tốt nhất để thu hoạch lúa.

– Kỹ thuật phơi thóc: phơi theo kỹ thuật sáng phơi, chiều ủ (phơi từ 11 giờ sáng đến 2 giờ chiều, sau đó ủ thóc từ 2 – 4 giờ bằng cách cào gọn thành đống), trong quá trình phơi thường xuyên đảo thóc. Phơi đủ số giờ nắng (thường phơi 5 nắng) để hạt gạo trắng đều.

1.2.2. Bảo quản thóc

– Sau khi thóc đã được phơi khô, làm sạch (quạt sạch trấu, hạt lép) và đóng bao bảo quản nơi khô ráo.

– Thóc để lâu cần đóng bao lót nilon hoặc bảo quản trong chum, vại.. để chống ẩm, giữ độ thơm và phòng trừ chuột, bọ phá hoại.

– Bảo quản tại hộ gia đình: Bảo quản trong các dụng cụ như: thùng phi, thùng gỗ, hòm tôn… đặt nơi khô ráo, thoáng mát để bảo quản tại gia đình. Thường xuyên kiểm tra ẩm mốc, mọt và chuột.

– Bảo quản tại kho (áp dụng đối với HTX; các đơn vị kinh doanh lúa, gạo). Lúa được đóng trong các bao ni-lông có khối lượng từ 25-50 kg/1 bao, được bảo quản trong các kho với không gian lớn nhỏ khác nhau tuỳ theo lượng lúa cần bảo quản và được xây dựng theo đúng yêu cầu kỹ thuật kho tàng dành cho bảo quản lúa (có hệ thống thông gió ổn định nhiệt độ và độ ẩm).

1.3. CHỌN LỰA GIỐNG VỤ SAU

Khi lúa chín đều, chọn ruộng lúa không sâu bệnh bà con dùng Hép (một loại công cụ bà con dùng để gặt lúa) ngắt từng bông lúa(Thường là bông cái) đặc trưng để bó thành Cum(Mỗi cum khoảng 3kg) để cất trữ giống cho vụ sau, số lượng giống tùy thuộc diện tích của mỗi nhà mà trữ giống. Mỗi sào (360m2 ) cần 1,5 kg giống.