Sản phẩm mang nhãn hiệu chứng nhận

  1. SẢN PHẨM MANG NHÃN HIỆU CHỨNG NHẬN

Gạo nếp Lào Mu – Khánh Thiện.

  1. MÔ TẢ TÍNH CHẤT/CHẤT LƯỢNG ĐẶC THÙ CỦA SẢN PHẨM
    • Danh tiếng của sản phẩm

Khánh Thiện (hay Mường Chun- tên gọi cổ xưa) có từ bao giờ thì gạo nếp Lào Mu cũng có từ lúc đó, giờ cũng không còn ai nhớ. Chỉ biết rằng gạo nếp Lào Mu đã tồn tại và lưu truyền cùng với Khánh Thiện đến tận ngày nay.

Ngày xưa, chợ Lục Yên hay còn gọi là chợ Bến Lăn thuộc xã Tân Lĩnh bây giờ là nơi giao thương hàng hóa của người dân Lục Yên Châu trong đó có người Khánh Thiện. Người Khánh Thiện đi chợ mang theo ngoài tiền bạc, sản vật để giao thương còn một thứ không thể thiếu đó là gói xôi nếp làm hành trang. “Đi chợ” hai từ ngắn gọn nhưng là cả một quá trình của cha mẹ, là sự háo hức của con trẻ, là sự gian truân vất vả của thời gian và quãng đường, người đi chợ cùng bó đuốc lên dường từ lúc gà gáy canh hai, canh ba, đi qua xã Mai Sơn, Lâm Thượng rồi xã Tân Lĩnh( tuyến đường mòn dài khoảng 30 km), khi đến chợ đã tận trưa. Tan chợ mọi người quay về đến mỏ nước “Bó Hán” thuộc địa phận xã Tân Lĩnh, là nơi nghỉ chân của người dân đi chợ thuộc các xã Mai Sơn, Lâm Thượng, Tân Phượng, Khánh Thiện. Dưới tán cây xanh bên mỏ nước mọi người mang cơm gói ra ăn cùng thịt gà, cá nướng mang theo, trò chuyện lâu ngày mới gặp nhau, nghỉ ngơi lấy sức để rảo bước nhanh về nhà kẻo tối. Cứ từng đoàn người đến trước nghỉ rồi lại đi, đoàn đến sau lại đến nghỉ, trong lúc nghỉ có người đã phát hiện có gì là lạ đóng lại thành màng mỏng để lại trên lá dong gói cơm của đoàn người đi trước, họ để ý và biết cính xác những lá dong có lớp mỡ màng để lại kia là của người Khánh Thiện gói xôi nếp Lào Mu mang theo. Từ đó người ta nhận biết được rằng cơm nếp Lào Mu của người Khánh Thiện khác hoàn toàn so với nếp của các nơi khác. Và cứ thế gạo nếp Lào Mu Khánh Thiện nổi tiếng cơm thơm, mềm, dẻo, mỡ màng lan truyền tới khắp vùng miền, với những tên gọi đặc thù của lúa nếp như: Nếp Lào Mu, Kháu Lào Mu, Kháu Mò Me đậm nét của Mường Chun (khánh Thiện) không thể lẫn với ai được.

Trong Kháng chiến, ngày 16 tháng 5 năm 1948 Trung đoàn 165 được thành lập tại địa phương, thực hiện tình quân dân, xây dựng “Hũ gạo nuôi quân”, gạo Nếp Lào Mu Khánh Thiện đã đồng hành cùng bước chân hành quân đánh giặc của Trung đoàn, góp phần thắng lợi trên nhiều trận đánh, sau này Trung đoàn được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Thành đồng biên giới” và được phong tặng 02 lần Anh hùng.

  • Tính chất/chất lượng cảm quan đặc thù của sản phẩm

Sản phẩm Gạo nếp Lào Mu Khánh Thiện có một số tính chất/chất lượng cảm quan đặc thù như sau:

Hình thức: Hạt to, mẩy, tròn và hơi dẹt.

Màu sắc: Trắng sữa.

Mùi, vị : Mùi thơm, vị đặc trưng của gạo nếp.

Hạt gạo khi đồ xôi: Có một lớp dầu tự nhiên tiết ra từ hạt gạo, mùi thơm đặc trưng, hạt xôi mềm, dẻo, ít dính. Hạt xôi để một đến hai ngày vẫn giữ được độ mềm, dẻo đặc trưng.

  • Tính chất/chất lượng lý hóa đặc thù của sản phẩm
STT Đặc thù tính chất/chất lượng Đơn vị Chỉ số
  I Đặc thù về cơ lý
1 Chiều dài hạt gạo cm ≥ 0.57
2 Tỷ lệ dài rộng ≥ 1.88
II Đặc thù về dinh dưỡng
3 Protein % ≥ 8.32
4 Hàm lượng tinh bột % ≥ 64.7
5 Hàm lượng chất béo g/kg 15.49 – 17.21
6 Gluxit % ≥ 75.2

 

  1. CÁC YẾU TỐ TỰ NHIÊN ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM “GẠO NẾP LÀO MU – KHÁNH THIỆN”
    • Vị trí địa lý, địa hình

Khánh Thiện là một  nằm ở phía Bắc huyện Lục Yên, phía Bắc giáp xã Tiên Yên, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp xã Mai Sơn, phía Đông giáp xã Vĩ Thượng, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, phía Tây giáp xã Lâm Thượng. Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 25,30km2. Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 100 đến 150m.

Địa hình chủ yếu là đối, núi như: Núi Khau Pù nằm ở phía Tây Bắc, đỉnh núi là đường phân thủy mốc giới giữa huyện Lục Yên và huyện huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang kéo dài từ xã Khánh Thiện đến xã Minh Xuân. Khánh Thiện là lưu vực của thượng nguồn suối Pám, suối Luông (gọi là suối Phai mang) phát nguyên từ dãy núi Khau Pù chảy qua giữa làng, cũng chảy ngược lên phía Bắc đổ vào sông Lô. Đây là những con suối duy nhất của huyện Lục Yên không đổ vào sông Hồng.

Vị trí địa lý như trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho xã Khánh Thiện phát triển sản xuất nông nghiệp và giao lưu kinh tế, xã hội với các xã trong và ngoài huyện.

  • Đặc điểm khí hậu

Xã Khánh Thiện nằm trong tiểu vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và được chia thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa (từ tháng 5 – tháng 10) và mùa khô (từ tháng 11 – tháng 4 năm sau), nhiệt độ trung bình từ 22 – 24ºC, độ ẩm trung bình 68-72%.  Lượng mưa trung bình hàng năm 1.500-2.200 mm, số ngày mưa trong năm khoảng 130 ngày.

Ban Do

  • Đặc điểm đất đai

Bao gồm 2 hệ đất chính, đó là hệ đất do các con suối bồi đắp và hệ đất Feralit phát triển trên nền địa chất đa dạng của địa hình đồi núi. Đất tại xã Khánh Thiện có khả năng trồng hoa màu, lúa nước, cây công nghiệp ngắn ngày rất tốt.

  1. YẾU TỐ CON NGƯỜI ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM “GẠO NẾP LÀO MU KHÁNH THIỆN”

4.1. Đặc điểm giống lúa nếp Lào Mu Khánh Thiện

Lúa nếp Lào Mu là giống lúa bản địa, gắn với truyền thống văn hóa, lịch sử phát triển nghề trồng lúa của người dân ở xã Khánh Thiện. Dược người dân địa phương trồng chủ yếu trên nương rẫy theo phương thức canh tác truyền thống. Nhờ có lợi thế đất đai màu mỡ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, cùng với sự khéo léo, cần mẫn chăm sóc của người dân địa phương, nên cây lúa nếp Lào Mu mang những đặc trưng riêng, mà không một vùng trồng lúa nào có được.

Cây lúa nếp Lào Mu chỉ được canh tác một vụ trong một năm, thời gian sinh trưởng từ 135 đến 165 ngày (trồng từ tháng 5 đến tháng 6 âm lịch và thu hoạch vào tháng 10 âm lịch hàng năm). Lúa nếp Lào Mu có chiều cao khoảng 140 – 170cm/cây, gốc to, hình dạng đứng, lá hình thon dài. Bông dạng chụm, chiều dài bông từ 20 – 22cm, số hạt chắc trên một bông lúa trung bình khoảng 105 -107 hạt. Hạt thóc nếp Lào Mu, có hình tròn hơi dẹt, màu vàng nâu sẫm, nhấm thử thấy ngọt mát lan tỏa đầu lưỡi như sữa. Năng suất trung bình từ 150 – 170 kg/sào.

4.2. Kỹ thuật canh tác

  1. a) Thời vụ gieo mạ và cấy:Thời gian gieo mạ và cấy trong vụ mùa, gieo mạ xung quanh ngày 15/6 hàng năm (gieo mạ trước ngày lập thu 50 ngày). Thời gian cấy từ ngày 05/7 đến 15/7 dương lịch hàng năm, khi mạ được 20-30 ngày tuổi.
  2. b) Kỹ thuật làm mạ:

+ Xử lý, ngâm, ủ hạt giống: Ngâm mạ từ 36 đến 48 giờ, trong quá trình ngâm thay nước thường xuyên, không để chua giống, sau khi vớt giống đã ngâm xử lý như các loại giống lúa khác, khi nứt gai dứa thi đem gieo mạ.

+ Phương thức gieo mạ:

– Đất gieo mạ: Chọn ruộng có thành phần cơ giới nhẹ, đất cát pha, chân đất cao dễ tiêu thoát nước, tránh úng ngập khi mưa lớn.(Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen)

– Làm đất: Đất cày, bừa ngả sớm, bừa nhuyễn, bằng phẳng, sạch cỏ, lên luống rộng 1,0-1,2m, cao 20-25cm, rãnh rộng 20-30cm, mặt luống hơi vồng để dễ thoát nước.

+ Lượng giống gieo: 1,0 kg/12m2 , gieo thưa để cây mạ to, khỏe.

  1. c) Kỹ thuật cấy lúa:

+  Làm đất: Đất lúa cần phải cày sớm, ruộng làm dầm phải giữ nước, cày sâu, bừa kỹ làm đất nhuyễn, sạch cỏ dại, mặt ruộng bằng phẳng thuận lợi khi cấy đồng đều và điều tiết nước.

+ Kỹ thuật cấy:

– Tuổi mạ khi cấy: Cấy mạ non có từ 3 đến 5 lá,  mạ xúc, mạ dược đi cấy.

– Mật độ cấy: 16 – 20 khóm/m2, cấy 2 đến 3 dảnh/khóm. Cấy theo băng, luống (Để hàng canh tác) Cấy nông tay, không làm tổn thương cây mạ khi cấy. Mực nước trên ruộng từ 3-5cm để mạ nhanh bén rễ hồi xanh.

  1. d) Phân bón và phương pháp bón phân:

Bảo đảm nguyên tắc bón cân đối, hợp lý, bón tập trung, bón sớm và bón sâu. Tăng cường sử dụng các loại phân bón đa yếu tố, phân chuyên dùng và phân hữu cơ tổng hợp, hạn chế sử dụng phân đơn. Cách bón và liều lượng bón căn cứ vào độ phì của đất và diễn biến thời tiết.

  1. e) Điều tiết nước:

+ Giữ nước: Lần 1: Từ khi cấy đến sau khi bón phân thúc đẻ nhánh 7-15 ngày, kết hợp làm cỏ, trừ cỏ. Giữ nước trên mặt ruộng khoảng 5cm. Lần 2: Bón đón đòng (đứng cái)  Giữ nước trên mặt ruộng khoảng 5 cm.

+ Rút nước:  Lần 1: Sau khi bón phân thúc đẻ nhánh đến khi lúa làm đòng (đứng cái). Rút kiệt nước (đi vào ruộng chỉ hơi lún đất không bị lấm chân). Nếu ruộng khô thì tưới ẩm, không giữ nước trên ruộng. Lần 2: Từ khi lúa chắc xanh hay trước khi thu hoạch 15 ngày đến khi thu hoạch. Rút kiệt nước triệt để cho ruộng ở mức độ nẻ (đi vào không lún chân).

4.3. Thu hoạch, bảo quản

Tiến hành thu hoạch khi lúa chín 85-90%. Chọn ngày nắng ráo để thu hoạch. Sau khi thu hoạch đem tuốt lấy hạt, áp dụng biện pháp phơi dày, phơi đống, luống. (Bóc vỏ thấy hạt gạo lên phấn đều là được), quạt sạch trấu, hạt lép sau đó đưa vào bảo quản, bảo đảm cho hạt gạo sau này giữ được mùi thơm và không bị gãy nát khi xay xát, chế biến. Thường phơi trong 2-3 nắng tùy thuộc vào điều kiện thời tiết. Trong trường hợp thu hoạch về chưa phơi được ngay (gặp trời mưa) thì cần phải rải mỏng để thóc không bị ẩm mốc, nảy mầm làm giảm chất lượng sản phẩm./.

4.4. Chọn lựa giống vụ sau

Khi lúa chín đều, chọn ruộng lúa không sâu bệnh bà con dùng Hép (một loại công cụ bà con dùng để gặt lúa) ngắt từng bông lúa(Thường là bông cái) đặc trưng để bó thành Cum (Mỗi cum khoảng 3kg) để cất trữ giống cho vụ sau, số lượng giống tùy thuộc diện tích của mỗi nhà mà trữ giống. Mỗi sào (360m2 ) cần 1,5 kg giống.

 

TM. UBND HUYỆN LỤC YÊN